Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của HS. Các kỹ thuật dạy học tích cực được trình bày sau đây có thể được áp dụng thuận lợi trong làm việc nhóm. Tuy nhiên chúng cũng có thể được kết hợp thực hiện trong các hình thức dạy học toàn lớp nhằm phát huy tính tích cực của HS. Các kỹ thuật được trình bày dưới đây cũng được nhiều tài liệu gọi là các PPDH.
1. Động
não
1.1. Khái niệm: Động não (công não) là một kỹ
thuật nhằm huy động những tư tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề của các thành
viên trong thảo luận. Các thành viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực,
không hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra “cơn lốc” các ý tưởng). Kỹ thuật động
não do Alex Osborn (Mỹ) phát triển, dựa trên một kỹ thuật truyền thống từ Ấn
độ.
1.2. Quy tắc của động não
•Không đánh giá và phê phán trong quá trình thu thập ý tưởng
của các thành viên;•Liên hệ với những ý tưởng đã được trình bày;
•Khuyến khích số lượng các ý tưởng;
•Cho phép sự tưởng tượng và liên tưởng.
Các bước tiến hành
1. Người điều phối dẫn nhập vào chủ đề và xác định rõ một
vấn đề;
2. Các thành viên đưa ra những ý kiến của mình: trong khi thu
thập ý kiến, không đánh giá, nhận xét. Mục đích là huy động nhiều ý kiến tiếp
nối nhau;
3. Kết thúc việc đưa ra ý kiến;
4. Đánh giá:
•Lựa chọn sơ bộ các suy nghĩ, chẳng hạn theo khả năng ứng
dụng
- Có thể ứng dụng trực tiếp;
- Có thể ứng dụng nhưng cần nghiên cứu thêm;
- Không có khả năng ứng dụng.
•Đánh giá những ý kiến đó lựa chọn•Rút ra kết luận hành động.
1.3. Ứng dụng
•Dùng trong giai đoạn nhập đề vào một chủ đề;
•Tìm các phương án giải quyết vấn đề;
•Thu thập các khả năng lựa chọn và ý nghĩ khác nhau.
1.4. Ưu điểm
•Dễ thực hiện;
•Không tốn kém;
•Sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy động tối đa trí tuệ
của tập thể;
•Huy động được nhiều ý kiến;
•Tạo cơ hội cho tất cả thành viên tham gia.
1.5. Nhược điểm
•Có thể đi lạc đề, tản mạn;
•Có thể mất thời gian nhiều trong việc chọn các ý kiến thích
hợp;
•Có thể có một số HS „quá tích cực“, số khác thụ động.Kỹ
thuật động não được áp dụng phổ biến và nguời ta xây dựng nhiều kỹ thuật khác
dựa trên kỹ thuật này, có thể coi là các dạng khác nhau của kỹ thuật động não.
2. Động não viết
2.1. Khái niệm:Động não viếtlà một hình thức biến
đổi của động não. Trong động não viết thì những ý tưởng không được trình bày
miệng mà được từng thành viên tham gia trình bày ý kiến bằng cách viết trên
giấy về một chủ đề.Trong động não viết, các đối tác sẽ giao tiếp với nhau bằng
chữ viết. Các em đặt trước mình một vài tờ giấy chung, trên đó ghi chủ đề ở
dạng dòng tiêu đề hoặc ở giữa tờ giấy. Các em thay nhau ghi ra giấy những gì
mình nghĩ về chủ đề đó, trong im lặng tuyệt đối. Trong khi đó, các em xem các
dòng ghi của nhau và cùng lập ra một bài viết chung. Bằng cách đó có thể hình
thành những câu chuyện trọn vẹn hoặc chỉ là bản thu thập các từ khóa. Các HS
luyện tập có thể thực hiện các cuộc nói chuyện bằng giấy bút cả khi làm bài
trong nhóm. Sản phẩm có thể có dạng một bản đồ trí tuệ.
2.2. Cách thực hiện
•Đặt trên bàn 1-2 tờ giấy để ghi các ý tưởng, đề xuất của các
thành viên;
•Mỗi một thành viên viết những ý nghĩ của mình trên các tờ
giấy đó;
•Có thể tham khảo các ý kiến khác đã ghi trên giấy của các
thành viên khác để tiếp tục phát triển ý nghĩ;
•Sau khi thu thập xong ý tưởng thì đánh giá các ý tưởng trong
nhóm.
2.3. Ưu điểm
•Ưu điểm của phương pháp này là có thể huy động sự tham gia
của tất cả HS trong nhóm;
•Tạo sự yên tĩnh trong lớp học;
•Động não viết tạo ra mức độ tập trung cao. Vì những HS tham
gia sẽ trình bày những suy nghĩ của mình bằng chữ viết nên có sự chú ý cao hơn
so với các cuộc nói chuyện bình thường bằng miệng;
•Các HS đối tác cùng hoạt động với nhau mà không sử dụng lời
nói. Bằng cách đó, thảo luận viết tạo ra một dạng tương tác xã hội đặc
biệt;
•Những ý kiến đóng góp trong cuộc nói chuyện bằng giấy bút
thường được suy nghĩ đặc biệt kỹ.
2.4. Nhược điểm
•Có thể HS sa vào những ý kiến tản mạn, xa đề;
•Do được tham khảo ý kiến của nhau, có thể một số HS ít có sự
độc lập.
3. Động nãokhông công khai
•Động não không công khai cũng là một hình thức của động
nãoviết. Mỗi một thành viên viết những ý nghĩ của mình về cách giải quyết vấn
đề, nhưng chưa công khai, sau đó nhóm mới thảo luận chung về các ý kiến hoặc
tiếp tục phát triển.
•Ưu điểm:mỗi thành viên có thể trình bày ý kiến cá
nhân của mình mà không bị ảnh hưởng bởi các ý kiến khác. •Nhược điểm:không
nhận được gợi ý từ những ý kiến của người khác trong việc viết ý kiến riêng.
4. Kỹ thuật XYZ: là một kỹ thuật nhằm phát huy tính
tích cực trong thảo luận nhóm. X là số người trong nhóm, Y là số ý kiến mỗi
người cần đưa ra, Z là phút dành cho mỗi người.
Ví dụ kỹ thuật 635 thực hiện như sau:
•Mỗi nhóm 6 người, mỗi người viết 3 ý kiến trên một tờ giấy
trong vòng 5 phút về cách giải quyết 1 vấn đề và tiếp tục chuyển cho người bên
cạnh;
•Tiếp tục như vậy cho đến khi tất cả mọi người đều viết ý
kiến của mình, có thể lặp lại vòng khác;
•Con số X-Y-Z có thể thay đổi;
•Sau khi thu thập ý kiến thì tiến hành thảo luận, đánh giá
các ý kiến.
5. Kỹ thuật “bể cá”: là một kỹ thuật dùng cho
thảo luận nhóm, trong đó một nhóm HS ngồi giữa lớp và thảo luận với nhau, còn
những HS khác trong lớp ngồi xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc thảo luận đó
và sau khi kết thúc cuộc thảo luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của
những HS thảo luận.Trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người
ngồi. HS tham gia nhóm quan sát có thể ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào
cuộc thảo luận, ví dụ đưa ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát biểu
ý kiến khi cuộc thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này được gọi
là phương pháp thảo luận “bể cá”, vì những người ngồi vòng ngoài có thể quan
sát những người thảo luận, tương tự như xem những con cá trong một bể cá cảnh.
Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người thảo luận sẽ
thay đổi vai trò với nhau.
Bảng câu hỏi cho những người quan sát
• Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình không?
• Họ có nói một cách dễ hiểu không?
• Họ có để những người khác nói hay không?
• Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay không?
• Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình không?
• Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay không?
• Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không?
6. Kỹ thuật “ổ bi”: là một kỹ thuật dùng trong thảo
luận nhóm, trong đó HS chia thành hai nhóm ngồi theo hai vòng tròn đồng tâm như
hai vòng của một ổ bi và đối diện nhau để tạo điều kiện cho mỗi HS có thể nói
chuyện với lần lượt các HS ở nhóm khác.Cách thực hiện:
•Khi thảo luận, mỗi HS ở vòng trong sẽ trao đổi với HS đối
diện ở vòng ngoài, đây là dạng đặc biệt của phương pháp luyện tập đối tác;
•Sau một ít phút thì HS vòng ngoài ngồi yên, HS vòng trong
chuyển chỗ theo chiều kim đồng hồ, tương tự như vòng bi quay, để luôn hình
thành các nhóm đối tác mới.
7. Tranh luận ủng hộ – phản đối
Tranh luận ủng hộ – phản đối (tranh luận chia phe) là một kỹ
thuật dùng trong thảo luận, trong đó đề cập về một chủ đề có chứa đựng xung
đột. Những ý kiến khác nhau và những ý kiến đối lập được đưa ra tranh luận nhằm
mục đích xem xét chủ đề dưới nhiều góc độ khác nhau. Mục tiêu của tranh luận
không phải là nhằm “đánh bại” ý kiến đối lập mà nhằm xem xét chủ đề dưới nhiều
phương diện khác nhau.
Cách thực hiện:
•Các thành viên được chia thành hai nhóm theo hai hướng ý
kiến đối lập nhau về một luận điểm cần tranh luận. Việc chia nhóm có thể theo
nguyên tắc ngẫu nhiên hoặc theo nguyên vọng của các thành viên muốn đứng trong
nhóm ủng hộ hay phản đối.
•Một nhóm cần thu thập những lập luận ủng hộ, còn nhóm đối
lập thu thập những luận cứ phản đối đối với luận điểm tranh luận.
•Sau khi các nhóm đã thu thập luận cứ thì bắt đầu thảo luận
thông qua đại diện của hai nhóm. Mỗi nhóm trình bày một lập luận của mình: Nhóm
ủng hộ đưa ra một lập luận ủng hộ, tiếp đó nhóm phản đối đưa ra một ý kiến phản
đối và cứ tiếp tục như vậy. Nếu mỗi nhóm nhỏ hơn 6 người thì không cần đại diện
mà mọi thành viên có thể trình bày lập luận.
•Sau khi các lập luận đã đưa ra thì tiếp theo là giai đoạn
thảo luận chung và đánh giá, kết luận thảo luận.
8. Thông tin phản hồi trong quá trình dạy học
Thông tin phản hồi trong quá trình dạy học là GV và HS cùng nhận
xét, đánh giá, đưa ra ý kiến đối với những yếu tố cụ thể có ảnh hưởng tới quá
trình học tập nhằm mục đích là điều chỉnh, hợp lí hoá quá trình dạy và
học.
Những đặc điểm của việc đưa ra thông tin phản hồi tích cực
là:
•Có sự cảm thông;
•Có kiểm soát;
•Được người nghe chờ đợi;
•Cụ thể;
•Không nhận xét về giá trị;
•Đúng lúc;
•Có thể biến thành hành động;
•Cùng thảo luận, khách quan.
Sau đây là những quy tắc trong việc đưa thông tin phản hồi:
•Diễn đạt ý kiến của Ông/Bà một cách đơn giản và có trình tự
(không nói quá nhiều);
•Cố gắng hiểu được những suy tư, tình cảm (không vội vã);
•Tìm hiểu các vấn đề cũng như nguyên nhân của chúng;
•Giải thích những quan điểm không đồng nhất;
•Chấp nhận cách thức đánh giá của người khác;
•Chỉ tập trung vào những vấn đề có thể giải quyết được trong
thời điểm thực tế;
•Coi cuộc trao đổi là cơ hội để tiếp tục cải tiến;
•Chỉ ra các khả năng để lựa chọn. Có nhiều kỹ thuật khác nhau
trong việc thu nhận thông tin phản hồi trong dạy học. Ngoài việc sử dụng các
phiếu đánh giá, sau đây là một số kỹ thuật có thể áp dụng trong dạy học nói
chung và trong thu nhận thông tin phản hồi.
9. Kỹ thuật tia chớp
Kỹ thuật tia chớp là một kỹ thuật huy động sự tham gia của các
thành viên đối với một câu hỏi nào đó, hoặc nhằm thu thông tin phản hồi nhằm
cải thiện tình trạng giao tiếp và không khí học tập trong lớp học, thông qua
việc các thành viên lần lượt nêu ngắn gọn và nhanh chóng (nhanh như chớp!) ý
kiến của mình về câu hỏi hoặc tình trạng vấn đề.
Quy tắc thực hiện:
•Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào khi các thành viên thấy
cần thiết và đề nghị;
•Lần lượt từng người nói suy nghĩ của mình về một câu hỏi đã
thoả thuận, ví dụ: Hiện tại tôi có hứng thú với chủ đề thảo luận không?
•Mỗi người chỉ nói ngắn gọn 1-2 câu ý kiến của mình;
•Chỉ thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến.
10. Kỹ thuật “3 lần 3”
Kỹ thuật “3 lần 3“ là một kỹ thuật lấy thông tin phản hồi
nhằm huy động sự tham gia tích cực của HS.
Cách làm như sau:
• HS được yêu cầu cho ý kiến phản hồi về một vấn đề nào
đó (nội dung buổi thảo luận, phương pháp tiến hành thảo luận...).
•Mỗi người cần viết ra: - 3 điều tốt;- 3 điều chưa tốt;- 3 đề nghị cải tiến.
•Sau khi thu thập ý kiến thì xử lý và thảo luận về các ý kiến
phản hồi.
11. Lược đồ tư duy
11.1. Khái niệm
Lược đồ tư duy (còn được gọi là bản đồ khái niệm) là một sơ
đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả
làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy có thể được viết
trên giấy, trên bản trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính.
11.2. Cách làm
•Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh
chủ đề.
•Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh
chính viết một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng CHỮ
IN HOA. Nhánh và chữ viết trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó
được nối với chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên
các nhánh.
•Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những
nội dung thuộc nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in
thường.
•Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
11.3. Ứng dụng của lược đồ tư duy
Lược đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều tình huống khác
nhau như:
•Tóm tắt nội dung, ôn tập một chủ đề;
•Trình bày tổng quan một chủ đề;
•Chuẩn bị ý tưởng cho một báo cáo hay buổi nói chuyện, bài
giảng;
•Thu thập, sắp xếp các ý tưởng;
•Ghi chép khi nghe bài giảng.
11.4. Ưu điểm của lược đồ tư duy
•Các hướng tư duy được để mở ngay từ đầu;
•Các mối quan hệ của các nội dung trong chủ đề trở nên rõ
ràng;
•Nội dung luôn có thể bổ sung, phát triển, sắp xếp lại;
•Học sinh được luyện tập phát triển, sắp xếp các ý tưởng.
(Tài liệu tham
khảo: Nguyễn Văn Cường, Một số vấn đề chung về đổi mới PPDH ở trường THPT - dự
án phát triển GDTHPT).