An Thủy là một xã của huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình với dân số trên 9600 người, diện tích 22,77 km2. Xã gồm các làng: Lộc Thượng, Lộc Hạ, Lộc An, Thạch Bàn, Phú Thọ, Tân Lệ. Lộc An là một làng với những bề dày về lịch sử hình thành, phát triển. Người dân Lộc An chịu thương, chịu khó, sống chan hòa, thân thiện...
1. Sự hình thành phát triển làng Lộc An
Nghiên cứu gia phả một số dòng họ làng
Lộc An đều có chung quan điểm: Gần giữa thế kỷ XVII (vào khoảng từ năm 1630-1640),
sáu dòng họ đầu tiên gồm: Nguyễn, Võ, Phan, Lê, Đặng, Phạm đã đặt chân đến
vùng đất hoang vu cây cối um tùm như rú rậm dọc các cồn bãi... cùng năn lác phủ
dày vùng đầm lầy chạy dài đến 2 xã vùng trung du là Phú Thủy và Sơn Thủy. Các
cụ xưa dựng lều, trại trên những gò đất cao ven các kênh rạch nhỏ để khai phá.
Với bản tính cần cù, táo bạo, các cụ đã khai thiên phá
thạch lập ra một làng quê trù phú chạy dài từ phía bắc hói Cừa đến phía nam hói
Mới thuộc xã An Thủy bây giờ.
“Đất lành chim đậu”, các cụ xưa đã biết
đoàn kết giúp nhau khi “tối lửa tắt đèn”
nên đã khai phá được 700 mẫu ruộng. Không chỉ các thửa ở ven làng, các cụ còn
khai phá vùng ruộng sâu Trung Bể kéo dài đến Tứ Đoạn, mở rộng đến Suyển, Sải (Lò
Ngang - Phú Thủy) và Đồng Nen (Sơn Thủy). Sau ngày vào HTX rồi hợp nhất, Lộc An
bàn giao cho huyện 280 mẫu. Số ruộng còn lại 420 mẫu để dân làng canh tác theo
nghị định 64 của Đảng và chính phủ.
2. Lộc An xây
dựng các công trình văn hóa.
Lộc An là
một làng có dân số trung bình so với các làng khác thế nhưng số ruộng canh tác
của Lộc An lớn nhất huyện Lệ Thủy. Với số ruộng đó, người dân Lộc An ngày xưa
chẳng cần phát triển ngành nghề vẫn có cuộc sống an nhàn. Với một làng thuần
nông, Lộc An vẫn kiến thiết được các công trình văn hóa lớn như: Đình làng, nhà
thờ Lục Tộc, chùa, điện thánh, miếu Thành Hoàng, miếu Bà Hỏa, đền Thần Nông,
lăng ông Vồ, lăng ông Đắc... mua sắm đồ tế lễ như: Chuông chùa, chiêng trống,
thanh la, trang phục lễ hội. Ngoài ra, người dân Lộc An còn trồng được hàng cây
Bốm trước mặt phường Thượng; hàng tre rầy chạy dọc từ cầu gổ hói Đình đến chạc
Trường Mười; đường ruồng từ Biền Nhà Ngàng tới Lòi Đá (Phường Hạ) như bức
trường thành che chắn sóng gió cho cả hai phường Thượng, Hạ đủ biết công sức
của cha ông ta thuở trước như thế nào.
Huyền
thoại xưa kể lại rằng: Có thầy địa lý xứ Nghệ ngang qua làng dừng chân nghỉ ở
gốc đa cổ thụ lúc đó tập trung nhiều dân làng ngồi hóng mát. Thầy bảo: “Địa thế
làng này hình con rắn (hoàng xà). Phía trước là dãy núi Trường Sơn án ngự, gần
nhất là vườn cây cao (chỉ Vườn Bà) có con ngòi nhỏ vắt ngang chia làng thành
hai nửa vừa tiện cho việc tưới tiêu vừa làm đường giao thông đi lại. Với địa
thế này, nếu làng biết kiến thiết thêm các công trình phúc lợi cho dân thì làng
càng trở nên sầm uất, nhiều người đỗ đạt làm quan bởi đây là đất văn vật”. Mọi
người thán phục bèn lưu thầy ở lại giúp làng tìm đất, chọn hướng xây đình,
chùa, miếu vũ, nhà thờ làng, kiến thiết đường đi lối lại, đào kênh mương lấy
nước tưới ruộng. Trước khi qua đời, thầy xin làng chọn đất đặt mộ. Mộ thầy nằm
ở cuối làng, hướng mặt ra Lòi Đá. Vài năm sau, con trai thầy thi Đình đổ Trạng
Nguyên.
Gạt bỏ
những chi tiết hoang đường trong huyền thoại để thấy rằng: cha ông ta ngày xưa
đã biết tôn trọng người hiền tài, vận dụng họ vào những việc ích nước lợi làng,
phục vụ muôn dân.
Lễ cũng “Xuân thu nhị kỳ” được ra đời từ đó. Qua
hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân
dân Lộc An bận tham gia đánh giặc nên lễ cúng nói trên bị gián đoạn một thời gian dài.
Mấy thập
niên gần đây, theo nghị quyết V của TW Đảng: Khôi phục nền văn hóa đậm đà bản
sắc dân tộc, Đảng ủy bộ phận Lộc An biết duy trì lễ cúng nói trên giao cho chi
hội người cao tuổi đảm nhận đồng thời tổ chức hội làng 5 năm một lần vào dịp
rằm tháng hai. Năm nay là năm thứ 3, làng Lộc An tổ chức lễ hội truyền thống
này.
3. Lộc An tham
gia các phong trào yêu nước, đánh giặc và xây dựng tổ quốc.
Giữa thế
kỷ XIX thực dân Pháp đánh chiếm nước ta biến Việt Nam thành một nước nữa phong
kiến thuộc địa. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập lãnh đạo nhân
dân chống cường quyền áp bức. Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng
nổ. Nhân dân Việt Nam chịu ba tầng áp bức: Thực dân Pháp, phát xít Nhật, cùng
bọn tay sai nhà Nguyễn. Tháng 5 năm 1941, mặt trận Việt minh thành lập lãnh đạo
nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật.
Chi hội
Việt Minh thôn Lộc An thành lập tại Lòi Đá lấy nhà thờ Lục Tộc làm nơi hội họp.
Ngôi nhà này trở thành địa chỉ đỏ của cơ quan thuộc chi hội Việt Minh họp mặt,
hoạch định nhiệm vụ cách mạng, góp phần vào cuộc nổi dậy long trời lở đất vào
tháng 8/1945.
Giữa lúc
chính quyền non trẻ nước ta mới thành lập phải đối mặt với những khó khăn thách
thức: Giặc đói hoành hành, cả nước ta 2 triệu người chết đói; 90% dân ta phải
chịu mù chữ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, toàn dân tăng gia sản xuất, khai
hoang phục hóa, trồng rau màu kịp thời và tham gia diệt giặc Dốt. Trong các
làng, bản, xóm, thôn từng lớp “Bình dân học vụ” mở khắp nơi. Trên những trục
đường chính hoặc các chợ đều có trạm gác kiểm tra việc xóa nạn mù chữ. Sau 6
tháng phát động, giặc đói, giặc Dốt ở Lộc An đẩy lùi. Đầu tháng 4 năm 1947,
thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm Lệ Thủy. Điểm đầu tiên chúng đổ bộ là
làng Lộc An bởi đây là cơ sở cách mạng của vùng giữa huyện Lệ Thủy. Song chúng
đã vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của trung đội dân quân du kích Lộc An. Cuối
cùng, chúng xuống ca - nô rút về Đồng Hới. Về phía làng Lộc An, đồng chí Nguyễn
Văn Tắc – Trung đội trưởng dân quân du kích đã dũng cảm hy sinh. Số còn lại rút
lui theo đường hào giao thông ra ruộng.
Đầu năm
1948, giặc Pháp về đóng đồn tại đình làng Lộc An hòng chặt đứt đường dây bí mật
từ hầm chiến khu Bang – Rợn về vùng giữa. Song chúng đã nhầm. Đêm đêm, lực lượng
dân quân du kích vây đồn, bắn tỉa. Bọn giặc hoảng sợ bèn rút quân. Trước khi
rút, chúng triệt hạ cây cối, tháo gỡ đình làng chở qua đồn Hòa Luật. Đình làng
Lộc An bị mất từ đó.
Lộc An
cũng là nơi thực hiện tốt các phong trào yêu nước như: Phụ nữ cứu quốc, thanh
niên cứu quốc, thiếu nhi cứu quốc, bà mẹ nuôi quân.
Hòa bình
lập lại trên miền Bắc rồi cải cách ruộng đất, sửa sai. Đến năm 1960, hầu hết
người dân Lộc An vào làm ăn tập thể xây dựng HTX nông nghiệp.
Đầu năm
1965, giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc. Phong trào: “Tay cày tay súng”, “Tiếng hát
át tiếng bom”, “Ba sẵn sàng”, “ba đảm đang” xuất hiện. Những người con
Lộc An lại lên đường cầm súng, không ít người đã ngã xuống lấy máu mình tô thăm
ngọn cờ dân tộc.
Qua hai
cuộc kháng chiến, Lộc An đã có 3 bà mẹ được nhà nước tôn vinh mẹ Việt Nam anh
hùng; 16 cán bộ tiền khởi; một anh hùng lao động thời đổi mới; 52 liệt sỹ, 17
thương binh, 5 bệnh binh, 8 người bị nhiễm chất độc màu da cam, 149 người cựu
chiến binh, 94 người TNXP.
Trong thời
kỳ xây dựng và đổi mới hôm nay, làng Lộc An thực hiện và giữ vững 19/19 tiêu
chí xây dựng nông thôn mới trong đó bê tông hóa đường trổng đạt 70%; 100% bến
nước sạch đẹp. Cầu cống, đường nội đồng khang trang vĩnh cửu.
Để có được
niềm vui trọn vẹn như hôm nay là nhờ sự đoàn kết nhất trí của hơn 2000 dân, 51
dòng họ, 11 tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội, xã hội nghề nghiệp mà vai trò
đầu tàu là Đảng ủy bộ phận, ban quản lí làng, HTX biết gắn kết tạo thành sức
mạnh tổng hợp. Đúng như câu thớ của Bác Hồ:
Biết
đồng sức
Biết
đồng lòng
Việc
dẫu khó
Cũng
thành công.
BBT Sưu tầm & giới thiệu